Trong xã hội hiện đại, xu hướng nhiều người trẻ lựa chọn kết hôn muộn, sinh con muộn, thậm chí chỉ sinh một con hoặc không sinh con. Nguyên nhân xuất phát từ nhiều yếu tố, như mong muốn tập trung thời gian và sức lực cho học tập, sự nghiệp; áp lực tài chính khi chi phí nhà ở, nuôi dạy và giáo dục con cái ngày càng cao; tâm lý muốn tận hưởng tự do cá nhân lâu hơn; hay những lo ngại về trách nhiệm, áp lực và rủi ro trong đời sống hôn nhân, nuôi dạy trẻ.
Theo ước tính của các chuyên gia về dân số, tốc độ tăng dân số của Việt Nam đang giảm, bình quân giai đoạn 2017 – 2020 là tăng 1,07%. Tuy nhiên, do mức sinh có xu hướng giảm nhẹ nên tốc độ tăng dân số giảm dần trong những năm gần đây (tốc độ tăng dân số trung bình năm 2022 là 0,98%, năm 2023 là 0,84%) và dự báo tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo, theo dự báo dân số Việt Nam 2019 – 2069 của Tổng cục Thống kê.
Trong trường hợp mức sinh giảm mạnh như phương án thấp thì sau năm 2054, dân số Việt Nam sẽ bắt đầu tăng trưởng âm và mức giảm dân số ngày càng lớn.
Ngược lại, nếu mức sinh thay thế vẫn được duy trì ổn định trong suốt thời kỳ dự báo đúng như mục tiêu Nghị quyết số 21/NQ-TW của Ban Chấp hành .Ư khóa XII ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới đề ra thì đến cuối thời kỳ dự báo, dân số Việt Nam vẫn tăng nhẹ, bình quân mỗi năm giai đoạn 2064 – 2069, dân số tăng 0,17%, tương đương 200.000 người mỗi năm.
Như vậy, nếu mức sinh tiếp tục giảm, số người được sinh ra ngày càng ít đi thì tương lai lực lượng dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm, trong khi tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng nhanh dẫn đến tỷ trọng dân số già sẽ chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng dân số và Việt Nam sẽ có cơ cấu dân số già.
Khi hiện tượng lựa chọn kết hôn muộn, sinh con muộn, thậm chí chỉ sinh một con hoặc không sinh con được diễn ra phổ biển và kéo dài trong nhiều năm, việc này sẽ không chỉ ảnh hưởng đến từng gia đình mà còn tạo ra những ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu dân số, sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước.
Nếu người phụ nữ mang thai sau tuổi 40, nguy cơ đối mặt với các vấn đề sức khỏe như tiểu đường thai kỳ, tăng huyết áp, tiền sản giật, sinh non, cũng như khả năng thai nhi mắc bệnh di truyền hoặc dị tật bẩm sinh sẽ cao hơn. Ở nam giới, tuổi càng cao thì những đứa trẻ sinh ra càng dễ chịu ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển cả về thể chất lẫn trí tuệ.
Bên cạnh đó, hệ quả đáng lo ngại hơn của kết hôn muộn, sinh con muộn và sinh ít con là sự thay đổi quy mô và cơ cấu dân số. Khi tỷ lệ các cặp vợ chồng sinh ít con tăng lên, tỷ suất sinh của toàn xã hội sẽ giảm, kéo theo hiện tượng già hóa dân số diễn ra nhanh hơn. Điều này khiến quốc gia phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và nhiều ngành nghề quan trọng khác. Cùng lúc, gánh nặng chi phí cho chăm sóc y tế, bảo hiểm hưu trí và an sinh xã hội sẽ gia tăng, tạo áp lực lên ngân sách và hệ thống phúc lợi.
Cùng với đó, việc sinh con muộn cũng ảnh hưởng tới đời sống gia đình và cấu trúc xã hội. Khoảng cách thế hệ trong gia đình trở nên xa hơn, trẻ có thể ít được ông bà trực tiếp chăm sóc và gắn bó. Bố mẹ lớn tuổi thường có ít năng lượng, sức khỏe và thời gian để đồng hành cùng con trong các hoạt động học tập, vui chơi, phát triển thể chất và tinh thần.
Chúng ta có thể thấy, quy mô và cơ cấu dân số hợp lý là nền tảng quan trọng cho một quốc gia phát triển bền vững. Mỗi người, thông qua những quyết định sáng suốt hôm nay, có thể góp phần tạo dựng một tương lai giàu mạnh, ổn định và hạnh phúc hơn cho đất nước. Kết hôn đúng thời điểm, và sinh đủ hai con để nuôi dạy cho tốt, đó không chỉ là sự lựa chọn cá nhân, mà còn là trách nhiệm xã hội và đóng góp thiết thực cho một Việt Nam phát triển bền vững.
